Các học thuyết lãnh đạo, quản trị doanh nghiệp (P1)
(Cập nhật: 1/4/2013 12:07:39 PM)
Các học thuyết về lãnh đạo, quản trị là cơ sở, là nền tảng dẫn đường cho hoạt động sản xuất kinh doanh một cách khoa học, có hệ thống. Xem thêm: Các học thuyết lãnh đạo, quản trị doanh nghiệp (P1)
CÁC HỌC THUYẾT LÃNH ĐẠO, QUẢN TRỊ
- Học thuyết hay còn gọi là lý thuyết
là những khái quát lý luận về một lĩnh vực nào đó, thông qua nghiên cứu
và khảo nghiệm thực tế, từ đó vận dụng vào các hoạt động thực tiễn trong
mỗi lĩnh vực.
- Học thuyết về lãnh đạo, quản trị kinh doanh là những khái quát lý luận về lãnh đạo, quản trị các hoạt động kinh doanh.
- Các học thuyết về lãnh đạo, quản trị
là cơ sở, là nền tảng dẫn đường cho hoạt động sản xuất kinh doanh một
cách khoa học, có hệ thống.
- Từ những năm 1800 khi nền công
nghiệp và các hoạt động sản xuất phát triển mạnh, thực tiễn đã tổng kết
và rút ra thành những lý thuyết với nhiều trường phái hay các nhóm lý
thuyết khác nhau.
Có thể chia thành ba nhóm lý thuyết lãnh đạo, quản trị học:
1 - Lý thuyết lãnh đạo, quản trị cổ điển
Trường phái cổ điển bao gồm một số tác
giả với những nghiên cứu về quản trị kinh doanh, dưới đây là một số tác
giả điển hình và những tư tưởng chủ yếu của họ.
a - Lý thuyết lãnh đạo, quản trị khoa học
Frederich Taylor (1856 - 1915): Taylor
xuất thân là một công nhân và trở thành kỹ sư trải qua quá trình ban
ngày đi làm, ban đêm đi học hàm thụ đại học. Trong quá trình làm việc
trong nhà máy luyện cán thép, Taylor đã có nhiều cơ hôi quan sát và thực
hành lãnh đạo, quản trị trong nhà máy. Ông là tác giả với những nghiên
cứu và lý thuyết khá nổi tiếng về lãnh đạo, quản trị trong thời gian từ
1890 đến 1930.
Những nguyên tắc cơ bản trong lý thuyết của Taylor là:
-Xây dựng các phương pháp khoa học để thực hiện công việc, nhiệm vụ của từng công nhân
-Lựa chọn công nhân một cách khoa học và huấn luyện họ phương pháp khoa học để thực hiện công việc
-Tổ chức giáo dục và giám sát công nhân để đảm bảo họ thực hiện theo đúng phương pháp
-Xây dựng và củng cố quan hệ giữa người lao động và nhà lãnh đạo, quản trị
Biện pháp thực hiện: Ðể thực hiện những nguyên tắc của mình, Taylor đã tiến hành:
-Nghiên cứu các loại thời gian làm việc của công nhân theo từng công việc.
-Phân chia công việc của từng công nhân thành những công việc bộ phận nhỏ để cải tiến và tối ưu hóa.
-Xây dựng hệ thống khuyến khích người lao động làm việc, thực hiện trả công theo lao động.
Những kết quả qua áp dụng lý thuyết
của Taylor là năng suất lao động tăng lên rất nhanh và khối lượng sản
phẩm tăng nhiều. Tuy nhiên, lý thuyết của Taylor nghiêng về "kỹ thuật
hóa, máy móc hóa" con người, sức lao động bị khai thác kiệt quệ làm cho
công nhân đấu tranh chống lại các chính sách về lãnh đạo, quản trị.
Herny L. Gantt: Là kỹ sư chuyên về hệ
thống kiểm soát trong nhà máy. Trên cơ sở các lý thuyết của Taylor,
Gantt đã phát triển và đưa ra lý thuyết của mình, trong đó chủ yếu tập
trung vào mở rộng hệ thống khuyến khích vật chất cho người lao động với
các biện pháp như :
-Khuyến khích công nhân sau một ngày làm việc nếu họ làm việc tốt.
-Khuyến khích cho đốc công, quản đốc
dựa vào kết quả làm việc của công nhân dưới sự giám sát trực tiếp của họ
nhằm động viên họ trong công việc lãnh đạo, quản trị.
Biện pháp này đã khuyến khích các đốc
công quản lý tốt hơn. Cũng trên cơ sở này, các phương pháp quản trị tiến
độ thực hiện mới được đưa vào trong quản lý như phương pháp đường găng
(CPM -Critical Path Method) và phương pháp sơ đồ mạng lới (PERT -
Program Evaluation and Revie Technique). Trong lý thuyết này, khía cạnh
lợi ích được chú ý hơn nhiều.
Frank B (1868 - 1924) và Liliant M.
Gibreth (1878 -1972). Hai tác giả này đã nghiên cứu rất chi tiết quá
trình thực hiện và quan hệ giữa các thao tác, động tác và cử động với
một mức độ căng thẳng và mệt mỏi nhất định của công nhân trong quá trình
làm việc, từ đó đưa ra phương pháp thực hành tối ưu nhằm tăng năng suất
lao động, giảm sự mệt mỏi của công nhân.
Các phương pháp thuộc trường phái này
đã có những đóng góp có giá trị cho sự phát triển của tư tưởng lãnh đạo,
quản trị, phát triển kỹ năng lãnh đạo, quản trị qua phân công, chuyên
môn hóa quá trình lao động, đồng thời là những người đầu tiên nêu lên
tầm quan trọng của việc tuyển chọn và huấn luyện nhân viên, dùng đãi ngộ
để tăng năng suất lao động.
Tuy nhiên, các tác giả đã phát triển
một phương pháp lãnh đạo, quản trị mang tính khoa học hóa một cách thuần
túy như "máy móc hóa con người", gắn chặt con người vào một dây chuyền
công nghệ để lãnh đạo, quản trị và tăng năng suất lao động.
b - Lý thuyết lãnh đạo, quản trị hành chính
Trường phái lãnh đạo, quản trị hành
chính đã phát triển những nguyên tắc lãnh đạo, quản trị chung cho cả tổ
chức, tiêu biểu cho trường phái này có các tác giả với các công trình
nghiên cứu và lý thuyết như sau:
Henry Fayol (1841 - 1925): Quan điểm
của Fayol là tập trung vào xây dựng một tổ chức tổng thể để lãnh đạo,
quản trị quá trình làm việc. Ông cho rằng, năng suất lao động của con
người làm việc chung trong một tập thể tùy thuộc vào sự sắp xếp, tổ chức
của nhà lãnh đạo, quản trị. Ðể có thể làm tốt việc sắp xếp, tổ chức
doanh nghiệp, Fayol đã đề ra và yêu cầu các nhà lãnh đạo, quản trị nên
áp dụng 14 nguyên tắc trong lãnh đạo, quản trị:
-Phân công lao động trong quá trình làm việc một cách chặt chẽ
-Phải xác định rõ mối quan hệ quyền hành và trách nhiệm.
-Phải xây dựng và áp dụng chế độ kỷ luật nghiêm ngặt trong quá trình làm việc .
-Thống nhất trong các mệnh lệnh điều khiển, chỉ huy
-Lãnh đạo tập trung
-Lợi ích cá nhân phải gắn liền và phục vụ cho lợi ích của tập thể , lợi ích chung.
-Xây dựng chế độ trả công một cách xứng đáng theo kết quả lao động
-Lãnh đạo, quản trị thống nhất
-Phân quyền và định rõ cơ cấu lãnh đạo, quản trị trong tổ chức
-Trật tự
-Công bằng: tạo quan hệ bình đẳng trong công việc
-Công việc của mỗi người phải được ổn định trong tổ chức
-Khuyến khích sự sáng tạo trong quá trình làm việc
-Khuyến khích phát triển các giá trị chung trong quá trình làm việc của một tổ chức.
Max Weber (1864 - 1920): Nhà xã hội
học ngời Ðức, tác giả đã phát triển một tổ chức quan liêu bàn giấy. Khái
niệm quan liêu bàn giấy được định nghĩa: là hệ thổng chức vụ và nhiệm
vụ được xác định rõ ràng, phân công phân nhiệm chính xác, hệ thống quyền
hành có tôn ti trật tự. Theo Weber, hệ thống tổ chức kinh doanh phải
được:
-Xây dựng một cơ cấu tổ chức chặt chẽ.
-Ðịnh rõ các quy định, các luật lệ, chính sách trong hoạt động lãnh đạo, quản trị.
-Ðịnh rõ quyền lực và thừa hành trong lãnh đạo, quản trị.
Chester Barnard (1886 - 1961): Tác giả cho rằng một tổ chức là một hệ thống hợp pháp của nhiều người với ba yếu tố cơ bản:
- Sự sẵn sàng hợp tác.
- Có mục tiêu chung.
- Có sự thông đạt.
Nếu thiếu một trong ba yếu tố đó tổ
chức sẽ tan vỡ. Cũng như Weber, ông nhấn mạnh yếu tố quyền hành trong tổ
chức, nhưng ông cho rằng nguồn gốc quyền hành không xuất phát từ người
ra lệnh, mà xuất phát từ sự chấp nhận của cấp dưới. Ðiều đó chỉ có được
khi với bốn điều kiện như sau:
- Cấp dưới hiểu rõ mệnh lệnh
- Nội dung ra lệnh phải phù hợp với mục tiêu của tổ chức
- Nội dung ra lệnh phải phù hợp với lợi ích cá nhân của cấp dưới
- Cấp dưới có khả năng thực hiện mệnh lệnh đó.
* Trường phái lãnh đạo, quản trị hành
chính chủ trương rằng năng suất lao động sẽ đạt cao trong một tổ chức
được sắp đặt hợp lý, đóng góp trong lý luận cũng như trong thực hành
lãnh đạo, quản trị: những nguyên tắc lãnh đạo, quản trị, các hình thức
tổ chức, quyền lực và sự ủy quyền....
2 - Nhóm lý thuyết hành vi - tâm lý xã hội trong lãnh đạo, quản trị kinh doanh
Nhóm lý thuyết này nhấn mạnh vai trò
con người trong tổ chức, quan điểm của nhóm này cho rằng năng suất lao
động không chỉ do yếu tố vật chất quyết định mà còn do nhu cầu tâm lý xã
hội của con ngời. "Vấn đề tổ chức là vấn đề con người" và họ chỉ ra
rằng trong trường phái cổ điển có nhiều hạn chế vì đã bỏ qua yếu tố con
người trong quá trình làm việc.
Mary Parker Pollet (1868 1933)-Tác giả
của lý thuyết các quan hệ con người trong tổ chức. Nữ tác giả này cho
rằng, trong quá trình làm việc, người lao động có các mối quan hệ giữa
họ với nhau và giữa họ với một thể chế tổ chức nhất định bao gồm:
-Quan hệ giữa công nhân với công nhân
-Quan hệ giữa công nhân với các nhà lãnh đạo, quản trị
Ðồng thời tác giả cũng nhấn mạnh, hiệu quả của lãnh đạo, quản trị phụ thuộc vào việc giải quyết các mối quan hệ này.
* Những quan điểm về hành vi con
người: các tác giả trong trường phái này cho rằng hoạt động của con
người phụ thuộc nhiều vào các yếu tố tâm lý xã hội. Chính các yếu tố này
tạo nên các quan hệ tốt đẹp trong quá trình lao động, từ đó mà có thể
đạt hiệu quả cao trong quá trình làm việc.
Ðiển hình trong quan điểm này là các
nghiên cứu về các tác động tâm lý vào quá trình lao động tại Western
Electric’s Hawthorne Plant. Công trình nghiên cứu này gọi là những
nghiên cứu Hawthorne. Trong nghiên cứu đó, các tác giả đã sử dụng các
biện pháp tạo cho công nhân cảm giác tâm lý là họ đang được các nhà lãnh
đạo, quản trị chú ý đến như:
- Thay đổi chế độ sáng (tăng và giảm độ sáng).
- Thay đổi về tiền lương.
- Thay đổi thời gian làm việc.
Sự thay đổi này đã dẫn đến các tác
động tâm lý làm tăng năng suất lao động. Tiếp cận các động cơ về hành vi
của con người: các tác giả đã tập trung nghiên cứu vào các yếu tố tác
động vào hành vi của con người trong quá trình làm việc với tư cách là
động cơ làm việc của họ.
Abraham Moslow (1908 - 1970): nhà tâm
lý học, tác giả đã xây dựng lý thuyết về nhu cầu của con người, bao gồm 5
cấp độ được xếp từ cấp thấp đến cấp cao :
- Nhu cầu thiết yếu
- Nhu cầu an toàn
- Nhu cầu được hoà nhập
- Nhu cầu được nhận biết và tôn trọng
- Nhu cầu tự hoàn thiện
Một nhu cầu đã tương đối được thỏa mãn
thì nó không còn là xung động mạnh để thôi thúc nữa. Một nhu cầu đã
tương đối được thỏa mãn, tác phong con người sẽ bị chi phối bởi nhu cầu
khác cao hơn. Như vậy, muốn lãnh đạo, quản trị hữu hiệu phải chú ý đáp
ứng nhu cầu của con người.
Doughlas Mc Gregor (1906 - 1964) đã
phát triển lý thuyết tác phong trong lãnh đạo, quản trị, ông cho rằng
các nhà lãnh đạo, quản trị trước đây đã tiến hành cách thức lãnh đạo,
quản trị trên những giả thuyết sai lầm về tác phong con người. Những giả
thuyết đó cho rằng phần đông mọi người đều không thích làm việc, thích
được chi huy hơn là tự chịu trách nhiệm và hầu hết làm việc vì lợi ích
vật chất. Vì vậy các nhà lãnh đạo, quản trị đã xây dựng những bộ máy tổ
chức với quyền hành tập trung đặt ra nhiều quy tắc thủ tục, đồng thời
với hệ thống kiểm tra giám sát chặt chẽ. Gregor gọi những giả thuyết đó
là X và đề nghị một lọat giả thuyết khác mà ông gọi là giả thuyết Y.
Thuyết Y cho rằng con người sẽ thích
thú với công việc nếu có được những thuận lợi và họ có thể đóng góp
nhiều hơn cho tổ chức. Mc Gregor cho rằng, thay vì nhấn mạnh đến cơ chế
kiểm tra thì nhà lãnh đạo, quản trị nên quan tâm nhiều hơn đến sự phối
hợp hoạt động.
Chris Argyris: nghiên cứu tư cách con
người và các yếu tố đời sống tổ chức đã cho rằng, một sự nhấn mạnh thái
quá của nhà lãnh đạo, quản trị đối với việc kiểm sóat nhân viên sẽ dẫn
tới nhân viên có thái độ thụ động, lệ thuộc và né tránh trách nhiệm.
Trong trạng thái tâm lý đó họ sẽ cảm thấy bất bình và có thái độ tiêu
cực đối với việc hoàn thành mục tiêu chung. Argyris cho rằng bản chất
con người luôn muốn độc lập trong hành động, sự đa dạng trong mối quan
tâm và khả năng tự chủ. Nhà lãnh đạo, quản trị
hữu hiệu là người biết tạo điều kiện cho nhân viên ứng xử như những người trưởng thành và điều đó chỉ có lợi cho tổ chức.
* Tư tưởng của trường phái tác
phong nhấn mạnh nhu cầu xã hội, được quý trọng và tự thể hiện mình của
người lao động. Lý thuyết này bổ sung cho lý thuyết lãnh đạo, quản trị
cổ điển khi cho rằng năng suất không chỉ thuần túy là vấn đề kỹ thuật.
Nó cũng giúp cải tiến cách thức và tác phong lãnh đạo, quản trị trong tổ
chức, xác nhận mối liên hệ giữa năng suất và tác phong hoạt động.
Lý thuyết tác phong có sự đóng góp lớn
trong lý thuyết và thực hành lãnh đạo, quản trị, giúp các nhà lãnh đạo,
quản trị hiểu rõ hơn về sự động viên con người, về ảnh hưởng của tập
thể đối với tác phong cũng như các vấn đề tâm lý lãnh đạo, quản trị.
3 - Lý thuyết định lượng trong lãnh đạo, quản trị
Trường phái này ra đời vào thời kỳ đầu
của Ðại chiến thế giới II, xuất phát từ nhu cầu giải quyết các vấn đề
phức tạp trong lãnh đạo, quản trị của thời kỳ chiến tranh. Trường phái
này do các nhà toán học, vật lý học và các nhà khoa học khác đưa ra, họ
tập trung vào trong một nhóm cùng nghiên cứu và đề xuất các phương pháp
lãnh đạo, quản trị, dùng các mô hình toán học, các thuật toán kết hợp
với sử dụng máy tính vào lãnh đạo, quản trị và điều hành các hoạt động
kinh doanh trong các DN.
Trường phái này tiếp cận trên 3 áp dụng cơ bản là quản trị khoa học, quản trị tác nghiệp và quản trị hệ thống thông tin.
* Quản trị khoa học: Một trong
những áp dụng chính của trường phái này là quản trị khoa học, nhưng khác
với lãnh đạo, quản trị khoa học của Taylor ra đời ở đầu thế kỷ này. ở
đây khoa học lãnh đạo, quản trị là đường lối lãnh đạo, quản trị dùng
những phân tích toán học trong quyết định, sử dụng các công cụ thống kê,
các mô hình toán kinh tê để giải quyết các vấn đề trong sản xuất kinh
doanh.
* Quản trị tác nghiệp: là áp dụng
phương pháp định lượng vào công tác tổ chức và kiểm soát hoạt động. Lãnh
đạo, quản trị hoạt động sử dụng những kỹ thuật định lượng như dự đoán,
kiểm tra hàng tồn kho, lập trình tuyến tính, lý thuyết hệ quả, lý thuyết
hệ thống….
* Quản trị hệ thống thông tin: là
những chương trình tích hợp thu thập và xử lý thông tin giúp cho việc ra
quyết định. Hệ thống thông tin là kết quả hợp lý của việc ngày càng có
sự công nhân sức mạnh và giá trị của thông tin, và thông tin phải sẵn
sàng dưới dạng thích hợp, đúng thời điểm cho các nhà lãnh đạo, quản trị
làm quyết định.
Trường phái định lượng thâm nhập vào
hầu hết trong mọi tổ chức hiện đại với những kỹ thuật phức tạp. Trường
phái này rất quan trong cho các nhà lãnh đạo, quản trị các tổ chức lớn
và hiện đại ngày nay. Các kỹ thuật của trường phái này đã đóng góp rất
lớn vào việc nâng cao trình độ hoạch định và kiểm tra hoạt động.
(QTDN)
Tin tức liên quan
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách lãnh đạo quản lý
- Vật vờ nghiên cứu khoa học - Kỳ 5: Thay đổi tư duy tận gốc
- Vật vờ nghiên cứu khoa học - Kỳ 4: Phải chấm dứt cơ chế xin - cho
- Vật vờ nghiên cứu khoa học - Kỳ 2: Nhiều tiến sĩ, ít phát minh
- Vật vờ nghiên cứu khoa học- Kỳ 3: Quá nhiều trói buộc
- Làm khoa học cũng phải nói dối
- Vật vờ nghiên cứu khoa học
- Định luật Moore và chiến lược quản trị theo thời gian
- Kinh tế và tái cấu trúc kinh tế năm 2013: từ góc nhìn của doanh nghiệp lớn
- Mô hình 5 nguồn lực của Michael Porter
- Tiêu điểm
- Tin đọc nhiều
- Thăm dò ý kiến
- Bạn biết đến DOMI qua hình thức nào dưới đây:
- Các trang tìm kiếm trên internet
- Được người khác giới thiệu
- Hoạt động đào tạo, tư vấn, hội thảo
- Thông tin trên Brochure, namme card
- Từ nguồn thông tin khác
- Xem kết quả
KẾT QUẢ THĂM DÒ Ý KIẾN
Các trang tìm kiếm trên internet: 38955
Được người khác giới thiệu: 18948
Hoạt động đào tạo, tư vấn, hội thảo: 9878
Thông tin trên Brochure, namme card: 4357
Từ nguồn thông tin khác: 8053