Phong cách quản lý trong hệ thống quản lý
(Cập nhật: 3/31/2012 3:19:58 PM)
Sử dụng phong cách nào trong quá trình thực hiện công việc luôn là băn khoăn của các nhà quản lý. Phong cách quản lý là gì? Gồm những phong cách cơ bản nào? Làm thế nào để tạo dựng những phong cách đó?… Nghiên cứu về phong cách quản lý trong vai trò một nhân tố cấu thành hệ thống quản lý sẽ giúp ta nhìn nhận toàn diện về những băn khoăn đó.
Các tiếp cận về phong cách quản lý
Trong lịch sử tư tưởng quản lý, các nghiên cứu về phong cách quản lý xuất hiện song hành với sự ra đời và phát triển của khoa học hành vi. Từ những mục đích nghiên cứu và góc độ tiếp cận khác nhau, các học giả đã có những quan niệm khác nhau về vấn đề này.
Căn cứ vào thái độ tin hay không tin của người quản lý đối với người
bị quản lý, vào nửa cuối thập niên 70 của thế kỷ XX, Rensis Likert đã
chỉ ra 04 phong cách quản lý gồm: Quản lý quyết đoán - áp chế; Quản lý
quyết đoán - nhân từ; Quản lý tham vấn và Quản lý tham gia theo nhóm.
Căn cứ vào việc quan tâm tới sản xuất hay con người của chủ thể quản
lý, Robert R. Blake và Jane S. Mouton đánh dấu các phong cách quản lý
trên một lưới kẻ ô hai chiều (ô bàn cờ quản lý) với 05 phong cách cơ bản
là: Phong cách “quản lý suy giảm” (ô 1.1); Phong cách “quản lý đồng
đội” (ô 9.9); Phong cách “quản lý theo kiểu câu lạc bộ ngoài trời” (ô
1.9); Phong cách “các nhà quản lý chuyên quyền theo công việc” (ô 9.1)
và Phong cách “quản lý chuyên quyền rộng lượng” (ô 5.5).
Căn cứ vào mức độ ủy quyền của người quản lý trong quá trình ra quyết
định, Robert Tannenbaum và Warren H. Schmidt đưa ra 07 phong cách gồm:
1. Xây dựng quyết định rồi công bố cho cấp dưới; 2. Tuyên truyền quyết
định với cấp dưới; 3. Báo cáo quyết định cho cấp dưới và khuyến khích họ
nêu ý kiến; 4. Dự thảo quyết định và cấp dưới đưa ra ý kiến sửa đổi; 5.
Nêu vấn đề, nghe ý kiến cấp dưới sau đó ra quyết định; 6. Nêu yêu cầu
và cho cấp dưới quyền ra quyết định; 7. Uỷ quyền cho cấp dưới ra quyết
định trong phạm vi vấn đề nhất định.
Ngoài ra, còn phải kể tới Thuyết hai khía cạnh của E. A. Fleishman và
nhóm nghiên cứu tại Đại học bang Ohio, Thuyết ứng phó của Fred Fiedler,
Thuyết đường lối mục tiêu của Robert J. House, mô hình Victor Vroom -
Philip Yetton - Arthur Jago, Thuyết ba khía cạnh của Paul Hersey và
Kenneth H Blanchard…
Điểm chung của các quan niệm này là các tác giả tiếp cận chủ yếu từ
giác độ tâm lý học quản lý. Trên bình diện nghiên cứu cũng như trong
hoạt động thực tiễn, những lý thuyết này có giá trị nhận thức quan trọng
và không thể thay thế. Song, nó đồng thời đặt ra yêu cầu nhận thức là
phải làm rõ bản chất của vấn đề từ giác độ của khoa học quản lý. Vậy
tiếp cận như thế nào sẽ cho ta kết luận từ giác độ của khoa học quản lý?
Tiếp cận quản lý từ góc độ khoa học quản lý
Quản lý là tác động có ý thức, bằng quyền lực, theo quy trình của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm phối hợp các nguồn lực để thực hiện mục tiêu của tổ chức trong môi trường biến đổi.
Quản lý xuất hiện cùng với nhu cầu hợp tác giữa con người với con người
để nhằm một mục đích chung. Hạt nhân của quản lý là mối quan hệ giữa con
người với con người. Mối quan hệ đó được thực hiện một cách có ý thức, bằng quyền lực và theo quy trình, trong đó bằng quyền lực
là yếu tố trung tâm. Nếu như mối quan hệ giữa con người với con người
là bản chất cấp một của quản lý, thì tính chất quyền lực của mối quan hệ
đó là bản chất cấp hai, là bản chất của bản chất. Bản thân việc tác
động có ý thức và theo quy trình cũng bị chi phối bởi
cách thức sử dụng quyền lực của chủ thể. Cách thức sử dụng quyền lực là
cơ sở để nhà quản lý tiến hành các tác động quản lý, đồng thời là căn cứ
cốt lõi để tiến hành phân chia các phong cách quản lý của chủ thể.
Chỉnh thể hệ thống quản lý được cấu thành bởi các phần tử có mối quan hệ hữu cơ mật thiết với nhau. Chủ thể sử dụng các công cụ và phương tiện để tác động lên đối tượng nhằm đạt tới mục tiêu. Toàn bộ quá trình này diễn ra tuân theo những nguyên tắc xác định. Tổng thể các công cụ, phương tiện và cách thức sử dụng công cụ và phương tiện được gọi là phương pháp. Trong tương tác này, phong cách quản lý được nhận diện với tư cách là việc sử dụng ổn định một dạng phương pháp với dấu ấn chủ quan của riêng chủ thể quản lý. Và nghệ thuật quản lý là biểu hiện của tính năng động, linh hoạt và sáng tạo của chủ thể trong tổng thể hoạt động của mình. Nghệ thuật ẩn mình và tồn tại thông qua các yếu tố của hệ thống quản lý.
Nếu như nguyên tắc quản lý được đặc trưng bởi tính khách quan, ổn
định và bắt buộc; thì tính năng động, linh hoạt và thường xuyên biến đổi
lại là đặc thù của phương pháp quản lý. Tuy nhiên, phương pháp quản lý
không tách rời nguyên tắc quản lý, mà lấy đó làm cơ sở để tạo lập và vận
hành. Điều đó có nghĩa là tính năng động, sáng tạo; sự đa dạng, phong
phú trong lựa chọn công cụ, phương tiện quản lý và cách thức tác động
của chủ thể quản lý là có giới hạn. Phương pháp quản lý gắn liền với
công cụ, phương tiện quản lý; cách chọn lựa công cụ, phương tiện quản
lý; và cách sử dụng công cụ, phương tiện đó (hay còn gọi là cách tác
động). Phương pháp quản lý mang tính ưu việt khi sự lựa chọn công cụ,
phương tiện và cách tác động phù hợp với đối tượng quản lý, tính chất công việc và điều kiện hoàn cảnh.
Tuy đối tượng, công cụ và phương tiện là cái bên ngoài và nhìn chung
không phụ thuộc vào chủ thể, nhưng lựa chọn công cụ nào, phương tiện nào
cho từng trường hợp, từng đối tượng, từng công việc lại là quyết định
của chủ thể. Thêm nữa, cho dù cùng chọn công cụ và phương tiện như nhau,
nhưng những chủ thể khác nhau sẽ có cách sử dụng những công cụ
và phương tiện đó khác nhau. Điều này tạo nên tính chất vừa chủ quan
vừa khách quan của phương pháp quản lý. Và phong cách quản lý chính là
nơi để hai xu hướng này hài hòa và phức hợp với nhau.
Tính khách quan của phong cách quản lý thể hiện qua nguyên tắc quản
lý, công cụ quản lý, phương tiện quản lý và những cách thức tác động vào
đối tượng. Đây là những yếu tố sẵn có và dù ai giữ vai trò quản lý cũng
có thể sử dụng.
Nguyên tắc quản lý là hệ thống những quan điểm quản lý có tính định
hướng và những quy định, quy tắc bắt buộc chủ thể quản lý phải tuân thủ
trong việc thực hiện chức năng và nhiệm vụ nhằm hoàn thành mục tiêu của
tổ chức. Về cơ bản, nhắc tới nguyên tắc quản lý là nhắc tới nguyên tắc
sử dụng quyền lực hợp lý, nguyên tắc quyền hạn tương xứng với trách
nhiệm, nguyên tắc thống nhất trong quản lý, nguyên tắc thực hiện quy
trình quản lý, nguyên tắc kết hợp hài hoà các lợi ích, nguyên tắc kết
hợp các nguồn lực, nguyên tắc tiết kiệm và hiệu quả... Dù ở tầng cấp hay
lĩnh vực quản lý cụ thể nào, chủ thể quản lý đều có thể lựa chọn và
tuân thủ các nguyên tắc đó. Cũng như vậy, quyết định quản lý là một
trong những công cụ điển hình nhất của hoạt động quản lý. Không khó để
nhận thấy sự tồn tại phổ biến của loại công cụ này trong thực tiễn quản
lý phong phú. Bản thân cách xây dựng, thực hiện và đánh giá việc thực
hiện quyết định quản lý cũng là những yếu tố đã có.
Song, lựa chọn CÁI gì và dùng cái đó theo CÁCH nào trong tập hợp sẵn
có đó lại là quyết định mang dấu ấn cá nhân của chủ thể quản lý. Điều
này làm nên tính chủ quan của phong cách quản lý.
Trước một vấn đề, nhà quản lý là người lựa chọn sẽ dùng cách ra quyết định cá nhân hay theo nhóm, quyết định bằng lời nói hay văn bản, quyết định mang tính hướng dẫn hay tuỳ nghi… Từng loại hình quyết định quản lý này đều đã tồn tại. Vấn đề là dùng nó vào thời điểm nào, cho công việc gì, ở giai đoạn phát triển nào của tổ chức, với đối tượng nào và theo cách nào.
Nhận thức này nhấn mạnh các yếu tố thuộc về ý thức xã hội mà cá nhân
nhà quản lý trưởng thành và hoạt động trong đó. Dù điều khiến nhà quản
lý lựa chọn là tính lịch sử, tính giai cấp, hệ tư tưởng - đạo đức, thể
chế chính trị, trình độ phát triển, tâm lý xã hội hay truyền thống dân
tộc… thì tất cả đều đã được “lọc” qua lăng kính của người đứng đầu và
hiện tồn trong những dạng thức hành vi của họ. Nói cách khác, trong một
môi trường cùng bị chi phối bởi các yếu tố nêu trên, mỗi lăng kính - mỗi
nhà quản lý, sẽ có cách riêng biệt để “hấp thụ” và “chuyển hoá” những
cái chung đó thành cái đơn nhất, mang dấu ấn riêng. Bên cạnh đó, còn
phải kể tới các yếu tố như tính cách, phẩm chất, thói quen, sở thích…
của nhà quản lý.
Nhưng cũng vì là phương tiện để cái đặc thù của chủ thể quản lý biểu
hiện ra bên ngoài, phong cách có tính cố hữu cao hơn nếu so sánh với
phương pháp và sự linh hoạt của phương pháp. Mặc dù sự tạo thành phương
pháp, các phương pháp có thể sử dụng và nhất là sự phân loại phương pháp
đều sẽ có những tác động trực tiếp tới phong cách của chủ thể quản lý,
song, sự thật là vẫn tồn tại một mâu thuẫn giữa tính tuỳ tiện (tuỳ
người, tuỳ lúc, tuỳ việc, tuỳ vào từng giai đoạn phát triển của tổ chức)
của phương pháp và tính bảo thủ của phong cách. Giải quyết mâu thuẫn
này chính là quá trình năng động hoá phong cách quản lý, điều chỉnh để
cái cố hữu hài hoà với cái linh hoạt, giữ bản sắc cá nhân giữa dòng liên
tục sao cho đạt được hiệu quả quản lý. Trạng thái đó chính là đạt tới
nghệ thuật quản lý.
Phân loại phong cách quản lý trên cơ sở cách thức sử dụng quyền lực
Nói tới quản lý là nói tới mối quan hệ chủ thể - đối tượng và việc
chủ thể sử dụng quyền lực để tác động tới đối tượng quản lý. Quyền lực
là công cụ quan trọng của quản lý. Nếu coi bản chất của hoạt động quản
lý là mối quan hệ quyền lực giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý,
thì phong cách quản lý chính là cách thức biểu hiện của mối quan hệ đó.
Bản chất của phong cách quản lý là cách thức mà chủ thể quản lý sử dụng
quyền lực tác động tới đối tượng quản lý nhằm thực hiện mục tiêu quản
lý, và sự khác biệt trong cách thức sử dụng quyền lực của chủ thể, không
gì khác, chính là căn cứ dẫn tới phân loại các phong cách quản lý.
Khác với đa phần các tiếp cận bằng điển hình cụ thể trong thực tế, từ
tiếp cận quyền lực, có thể thấy phong cách quản lý gồm ba loại: chuyên quyền, dân chủ và “tự do”. Sự phân loại này tán đồng và kế thừa một số phân loại đã có, song thêm vào đó sự nhấn mạnh đặc biệt đối với yếu tố quyền lực.
Có thể chỉ ra đặc trưng của ba phong cách này dưới nhiều góc độ khác nhau. Nếu như tập quyền
là trạng thái tối đa hoá quyền lực trong tay chủ thể thông qua việc
tuyệt đối hoá mọi quyết định, mục tiêu và cách thức để đi đến mục tiêu
(nhấn mạnh vào chủ thể); thì phân quyền được hiểu là việc chủ
thể trao cho đối tượng một mức độ xác định quyền lực trong quá trình bàn
thảo mục tiêu, xây dựng quyết định và lựa tìm công cụ thực hiện (sự
tham gia của cả chủ thể và đối tượng); và uỷ quyền có nghĩa chủ
thể san sẻ cho đối tượng phần quyền lực đủ để độc lập (xét mối quan hệ
với chủ thể) tiến hành toàn bộ quá trình thực thi mục tiêu quản lý (nhấn
mạnh vào đối tượng). Ba cấp độ sử dụng quyền lực này tạo nên sự tương
ứng hợp thành ba phong cách quản lý cơ bản trong nghiên cứu.
Xem xét điểm nhấn của quyền lực ở từng phong cách, có thể nhận thấy,
nếu như phong cách chuyên quyền dành sự chú trọng tới chủ thể trong toàn
bộ tiến trình quản lý, phong cách dân chủ hài hoà tương đối sự chú
trọng này cả cho đối tượng và chủ thể, thì phong cách “tự do” lại dành
phần đa “đất diễn” cho đối tượng quản lý. Tuy nhiên, mỗi cá nhân đem vào
thực tiễn hoạt động của mình một cái tôi khác biệt. Mỗi phong cách cũng
vì vậy mà tồn tại ở những cấp độ khác nhau, dưới dạng những chân dung
khác nhau.
Có thể truy nguyên căn cứ tạo lập các phong cách này khi trở lại xem xét các phương pháp quản lý.
Phương pháp quản lý là tổng thể những cách thức tác động của chủ thể
quản lý tới đối tuợng quản lý trên cơ sở lựa chọn những công cụ và
phương tiện quản lý phù hợp nhằm mang lại hiệu quả quản lý cao nhất
trong điều kiện môi trường nhất định. Nội hàm của khái niệm này là hai
vấn đề: công cụ, phương tiện quản lý; và cách thức lựa chọn cũng như sử
dụng các công cụ phương tiện đó.
Có rất nhiều các tiêu chí để phân loại phương pháp quản lý. Căn cứ
vào việc sử dụng các công cụ có tính vật chất, phương pháp quản lý được
chia thành phương pháp quản lý bằng kinh tế và phương pháp tổ chức -
hành chính. Căn cứ vào việc sử dụng các công cụ có tính phi vật chất,
phương pháp quản lý được chia thành phương pháp chính trị - tư tưởng và
phương pháp tâm lý - xã hội… Căn cứ vào việc sử dụng quyền lực, phương
pháp quản lý được chia thành phương pháp chuyên quyền, phương pháp dân
chủ và phương pháp “tự do”.
Phương pháp “tự do” với những đặc điểm của nó là căn cứ tạo thành phong
cách quản lý “tự do”. Phương pháp dân chủ là cơ sở xây dựng phong cách
quản lý dân chủ. Các biểu hiện của phương pháp chuyên quyền là tiền đề
tạo lập phong cách chuyên quyền.
Dân chủ không phải khi nào cũng phát huy tác dụng. Tự do vô lối thì
không khác nào phá hoại tổ chức. Rất nhiều tình huống trong thực tiễn
quản lý đòi hỏi nhà quản lý phải sử dụng quyền lực một cách tuyệt đối
(phương pháp chuyên quyền), song nếu thường xuyên, liên tục và lạm dụng
nó để trở thành phong cách ổn định thì lại không phải điều đáng khuyến
khích (phong cách chuyên quyền).
Ba phong cách kể trên là ba phong cách điển hình. Từ đây có thể phái
sinh những phong cách khác trên cơ sở tăng giảm những biểu hiện quyền
lực của chủ thể quản lý trong quá trình tác động lên đối tượng quản lý.
Các nhà quản lý cần căn cứ vào điều kiện khách quan cũng như những nhân
tố chủ quan để xây dựng cho mình phong cách quản lý phù hợp.
Quản lý là một lĩnh vực rộng lớn, phong phú và ngày càng phức tạp hơn
bởi thực tiễn đời sống đang diễn ra từng ngày. Các phạm trù liên quan
tới nó cũng vì vậy mà được quan tâm nghiên cứu bởi rất nhiều tiếp cận và
quan điểm khác nhau. Sự đa dạng này không chỉ phác hoạ lại tính biện
chứng của quá trình phát triển nhận thức, mà còn là kho tư liệu vô giá
minh chứng rõ nét cho tính đa sắc, đa diện của quản lý.
Xây dựng trên cơ sở mối quan hệ quyền lực giữa chủ thể và đối tượng quản lý, hy vọng những phân tích này góp một cái nhìn xuất phát từ bản chất vấn đề để thêm vào trong rất nhiều những quan niệm về phong cách quản lý đã có từ các căn cứ phong phú khác (như thái độ cá nhân, phẩm chất, đặc trưng, năng lực của nhà quản lý…), đồng thời gợi nhắc một sự quan tâm tương xứng với chức năng và giá trị mà vấn đề đem lại trong nhận thức cũng như thực tiễn quản lý./.
(TẠ THỊ BÍCH NGỌC)
Tin tức liên quan
- Các học thuyết lãnh đạo, quản trị
- Nghệ thuật và Khoa học quản trị
- Lược sử khoa học quản lý
- Tổng quan về lý thuyết quản lý - Thuyết quản lý khoa học của F.W.Taylor
- Hội thảo “ Nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu và thông tin phục vụ Quốc hội”
- Quản lý là sự thống nhất hoàn hảo giữa lí luận và thực tiễn
- Quản lý vừa là nghệ thuật vừa là khoa học
- Tiêu điểm
- Tin đọc nhiều
- Thăm dò ý kiến
- Bạn biết đến DOMI qua hình thức nào dưới đây:
- Các trang tìm kiếm trên internet
- Được người khác giới thiệu
- Hoạt động đào tạo, tư vấn, hội thảo
- Thông tin trên Brochure, namme card
- Từ nguồn thông tin khác
- Xem kết quả