BANNER
Banner 02
Banner 03
Banner 04

Đo lường quá trình chọn lựa ngân hàng để thực hiện giao dịch của nhóm khách hàng cá nhân tại Thành phố Hà Nội

(Cập nhật: 2/24/2025 5:51:49 PM)

Nghiên cứu nhằm mục đích tìm ra các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình chọn lựa ngân hàng để thực hiện giao dịch của nhóm khách hàng cá nhân tại Thành phố Hà Nội. Thông qua 156 mẫu khảo sát và các phương pháp phân tích định lượng trên phần mềm SPSS26. Kết quả cho thấy, 6 yếu tố có tác động tích cực đến quyết định lựa chọn ngân hàng để thực hiện giao dịch của nhóm khách hàng cá nhân bao gồm: Uy tín thương hiệu; Hoạt động Marketing; Lợi ích tài chính; Thái độ nhân viên; Chất lượng dịch vụ; Cơ sở vật chất. Dựa trên những phát hiện từ nghiên cứu, một số hàm ý chính sách được đề xuất nhằm giúp các ngân hàng thương mại cải thiện chiến lược thu hút và giữ chân khách hàng cá nhân.

1. Đặt vấn đề
 
Là một quốc gia đang phát triển mạnh mẽ với cơ cấu kinh tế năng động và mức thu nhập của người dân không ngừng tăng lên qua các năm, theo đánh giá của tạp chí Forbes Việt Nam là một trong những nước ghi nhận mức tăng trưởng GDP ấn tượng nhất thế giới trong 15 năm qua. Đặc biệt, năm 2024 mức GDP bình quân đầu người tại Việt Nam đạt 4.700 USD, tăng 377 USD so với năm 2023, tốc độ tăng trưởng vượt mức 7 và xếp thứ 33 thế giới. Trong đó, tại thành phố Hà Nội trung tâm kinh tế, chính trị và văn hóa của cả nước là nơi tập trung đông dân cư sinh sống, học tập và làm việc tạo ra nhu cầu lớn đối với các dịch vụ tài chính cá nhân nhằm cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống. Cùng với đó, cuộc chạy đua công nghệ và quá trình hội nhập mạnh mẽ của nền kinh tế đã và đang tạo ra áp lực cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng thương mại trong việc đa dạng hóa các sản phẩm, nâng cao chất lượng dịch vụ tài chính và chăm sóc khách hàng để đáp ứng kịp thời nhu cầu giao dịch ngày càng cao của người dân. Trước những giá trị và dịch vụ mà các ngân hàng mang lại, khách hàng cá nhân thường có xu hướng so sánh và cân nhắc nhiều yếu tố khác nhau trước khi đưa ra quyết định lựa chọn ngân hàng phù hợp để thực hiện giao dịch. Những nét đặc trưng riêng về thương hiệu, sản phẩm và chính sách, tạo ra sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt trong việc giành thị phần giữa các ngân hàng.
 
Nhiều nghiên cứu trước đây đã tập trung vào các khía cạnh khác nhau liên quan đến quyết định lựa chọn ngân hàng của khách hàng như các yếu tố tác động đến khách hàng khi lựa chọn ngân hàng để gửi tiết kiệm; sự hài lòng đối với chất lượng dịch vụ ngân hàng điện tử hay các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn ngân hàng thương mại của nhóm khách hàng cao tuổi. Đóng góp vào lĩnh vực này, tác giả tiến hành nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình chọn lựa ngân hàng để thực hiện giao dịch dành riêng cho phân khúc khách hàng cá nhân được thực hiện khảo sát trên nhiều ngân hàng thương mại tại thành phố Hà Nội. Nghiên cứu không chỉ mang lại ý nghĩa học thuật mà còn là cơ sở giúp các ngân hàng thương mại hiểu rõ hơn về nhu cầu và mong muốn của khách hàng cá nhân, từ đó có chiến lược phù hợp nâng cao khả năng thu hút và giữ chân khách hàng trong môi trường cạnh tranh đầy thách thức.
 
2. Cơ sở lý thuyết và mô hình nghiên cứu đề xuất
 
Khái niệm sự lựa chọn
 
Hechter và cộng sự (1997) cho rằng sự lựa chọn là hành vi có mục tiêu cụ thể và biểu thị cho sự rút ngắn khoảng cách giữa nhu cầu với mong muốn của con người. Qua quá trình quan sát thực tế và nghiên cứu Howatt (2001), Litwack (2007) khẳng định toàn bộ các hành vi của từng cá nhân đều là hệ quả được sinh ra từ sự lựa chọn hay những quyết định trong cuộc sống của hộ xuất phát từ những nhu cầu cơ bản của cuộc sống. Tóm lại, sự lựa chọn chính là tập hợp các hành vi bao gồm: Hành động, suy nghĩ, cảm nhận và sinh lý, trong đó suy nghĩ và hành động của mỗi cá nhân được xem là nhân tố quyết định đến cảm xúc và sinh lý của chính họ (Glasser, 2010).
 
Khái niệm hành vi khách hàng
 
Nghiên cứu của Kotler và Levy (1969) ám chỉ hành vi khách hàng là các hành vi xuất phát từ phía cá nhân khi đưa ra quyết định trong việc mua sắm, sử dụng hay loại bỏ những hàng hóa, sản phẩm và dịch vụ không phù hợp. Quan điểm này nhận được sự đồng tình từ phía Lamb và cộng sự (2000) nhấn mạnh quá trình diễn ra hành vi tiêu dùng của khách hàng; đồng thời Philip Kotler (2000) đã nhấn mạnh một lần nữa về hành vi khách hàng là tập hợp các hành vi, phản ứng, suy nghĩ của khách hàng trong suốt quá trình tiêu dùng hàng hoá, sản phẩm và dịch vụ. Hành vi này bắt đầu từ khi khách hàng có nhu cầu đến việc mua hàng hoá, sản phẩm và dịch vụ. Quá trình này chính là quá trình ra quyết định tiêu dùng của khách hàng. Như vậy, dễ dàng nhận thấy các quan niệm về hành vi khách hàng đều hướng đến các khía cạnh của quá trình ra quyết định tiêu dùng của một cá nhân hoặc nhóm người cụ thể và hành vi khách hàng còn được thể hiện qua việc nhận biết, tìm kiếm thông tin, đánh giá chung trước và sau khi tiêu dùng hàng hóa, sản phẩm hoặc dịch vụ và mối quan hệ tương tác giữa quá trình đó với các yếu tố bên trong hoặc bên ngoài ảnh hưởng trực tiếp, gián tiếp vào quá trình ra quyết định đó.
 
Các giả thuyết và mô hình nghiên cứu đề xuất
 
Trong tiếp thị dịch vụ, sức hấp dẫn của cơ sở vật chất là yếu tố quyết định sự thành công của dịch vụ. Dựa theo các nghiên cứu của Mokhlis (2008), Hà Nam Khánh Giao và Hà Minh Đạt (2020) đã tiến hành kiểm chứng thực nghiệm cho thấy cơ sở vật chất luôn có tác động tích cực đến việc lựa chọn ngân hàng để tiến hành các giao dịch của nhóm khách hàng cá nhân. Cơ sở vật chất hiện đại, hấp dẫn sẽ đem lại sự an tâm, thiện cảm đối với tất cả các khách hàng nói chung khi tiếp xúc với ngân hàng. Cơ sở vật chất của ngân hàng càng tiện nghi sẽ tạo sự thoải mái cho khách hàng trực tiếp chờ đợi hoặc thực hiện các giao dịch tại ngân hàng. Từ đó, giả thuyết nghiên cứu được đề xuất như sau:
 
H1: Cơ sở vật chất có ảnh hưởng tích cực đến sự lựa chọn ngân hàng để thực hiện giao dịch
 
Thái độ là biểu hiện cảm xúc của nhân viên đối với khách hàng. Nghiên cứu Haron và cộng sự (1994) đã chỉ rõ thái độ của nhân viên càng thân thiện, càng nhiệt tình thì thái độ của khách hàng càng thoải mái và sẽ thu hút được sự chú ý của khách hàng nhiều hơn. Điều này được thể hiện rõ ràng qua một số nghiên cứu của Almossawi (2001); Abduh (2010) khi nhìn thấy tầm quan trọng của nhân viên, đặc biệt là cảm nhận thái độ phục vụ của nhân viên sẽ là một trong nhưng tiêu chí hàng đầu khi khách hàng lựa chọn ngân hàng đó. Hay đơn giản là nhân viên càng hiếu khách thì khách hàng sẽ càng yêu thích và sẽ tìm đến ngân hàng đó để thực hiện các giao dịch. Thông qua quá trình khảo sát thực tế, một trong những tiêu chuẩn được khách hàng đồng thuận nhiều nhất khi thực hiện các giao dịch đối với ngân hàng đó chính là nhân viên có thoải mái và tận tình giúp đỡ khách hàng hay không. Kết quả này cũng được Hà Nam Khánh Giao và Hà Minh Đạt (2020) khẳng định nhân viên có chất lượng sẽ thu hút được khách hàng đến với ngân hàng nhiều hơn. Từ đó, giả thuyết nghiên cứu được đề xuất như sau:
 
H2: Thái độ của nhân viên có ảnh hưởng tích cực đến sự lựa chọn ngân hàng để thực hiện giao dịch
 
Uy tín thương hiệu là quá trình hoạt động lâu dài, bền vững hay danh tiếng gây dựng được của ngân hàng. Theo Tyler và Stanley (1999) nhận thấy quy mô, danh tiếng và sự tin cậy vốn có của ngân hàng là những yếu tố rất cần thiết để gây dựng niềm tin cho khách hàng, trong đó uy tín hay chính là danh tiếng của ngân hàng là một tiêu chí chủ chốt khi khách hàng tìm kiếm một ngân hàng để tiến hành các giao dịch (Almossawi, 2001). Ngân hàng càng có uy tín thương hiệu thì hiệu quả thu hút khách hàng càng lớn và khách hàng sẽ có niềm tin cao hơn khi lựa chọn ngân hàng này (Abduh, 2010). Thực tế, ngân hàng uy tín thuận lợi hơn trong việc xây dựng mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng. Nghiên cứu của Tara (2014), Hà Nam Khánh Giao và Hà Minh Đạt (2020) tìm thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa uy tín thương hiệu đến quá trình chọn lựa ngân hàng khi muốn tiến hành các giao dịch giữa ngân hàng với khách hàng. Từ đó, giả thuyết nghiên cứu được đề xuất như sau:
 
H3: Uy tín thương hiệu có ảnh hưởng tích cực đến sự lựa chọn ngân hàng để thực hiện giao dịch
 
Lợi ích tài chính chính là phần giá trị tăng có được từ các hoạt động liên quan đến tài chính. Xuất phát từ nghiên cứu Erol và El-Bdour (1989) đã mô tả khách hàng luôn luôn bị thu hút bởi những lợi ích mà ngân hàng đưa ra, Gerrad và Cunningham (1997) nhấn mạnh lợi nhuận hoặc lãi suất luôn là tiêu chí luôn được quan tâm và được sử dụng để duy trì mối quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng. Lược khảo tài liệu kết hợp với quá trình kiểm chứng thực tế cho thấy ngân hàng nào càng cho thấy được lợi ích tài chính đem đến cho khách hàng thì họ càng dễ bị thu hút và thuận lợi trong việc có được các quyết định lựa chọn ngân hàng này làm nơi thực hiện các giao dịch của họ (Mokhlis và cộng sự, 2008). Tóm lại, lợi ích tài chính là vấn đề mà khách hàng đặt lên hàng đầu khi lựa chọn sử dụng dịch vụ của ngân hàng nào đó. Khách hàng quan tâm nhiều hơn đến lợi ích tài chính, đặc biệt khi đến với các dịch vụ tín dụng và huy động vốn. Từ đó, giả thuyết nghiên cứu được đề xuất như sau:
 
H4: Lợi ích tài chính có ảnh hưởng tích cực đến sự lựa chọn ngân hàng để thực hiện giao dịch
 
Chất lượng dịch vụ là mức độ đáp ứng tốt hơn mong đợi của khách hàng về một loại hình dịch vụ được cung cấp liên quan đến khía cạnh của dịch vụ đó. Quan điểm Samli và Frohlịch (1993) nói rằng quá trình cung cấp dịch vụ là tiêu chí quan trọng mang đến sự thành công cho ngân hàng trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt. Đồng thời, chất lượng dịch vụ phục vụ khách hàng  được đánh giá qua thái độ của khách hàng, nghĩa là thái độ của khách hàng càng tốt tức là chất lượng dịch vụ của ngân hàng đó tốt (Mittal và Kamakura, 2001). Ngân hàng có chất lượng dịch vụ cao sẽ giúp giữ chân khách hàng bởi chất lượng dịch vụ này đã tạo ra được sự hài lòng cho họ (Le Blanc và Nguyen, 1988) và luôn có một mối tương quan mất thiết giữa sự hài lòng của khách hàng với chất lượng dịch vụ (Spreng và MacKoy, 1996). Chính chất lượng dịch vụ sẽ khiến khách hàng mới bị thu hút và lựa chọn ngân hàng để thực hiện giao dịch. Từ đó, giả thuyết nghiên cứu được đề xuất như sau:
 
H5: Chất lượng dịch vụ có ảnh hưởng tích cực đến sự lựa chọn ngân hàng để thực hiện giao dịch
 
Hoạt động Marketing là tổng hợp các hoạt động nghiên cứu thị trường, quảng bá và tiếp thị các sản phẩm, dịch vụ, xây dựng chiến lược và tạo dựng mối quan hệ bền vững đối với khách hàng. Theo Phương Ta và Yin Har (2000) cho thấy các hoạt động Marketing của ngân hàng đều tạo ra những tác động nhất định đến việc khách hàng sẽ lựa chọn ngân hàng nào để thực hiện các giao dịch, hay việc tiếp thị quảng bá sẽ khiến khách hàng chú ý đến ngân hàng đó nhiều hơn kéo theo sự tò mò và mong muốn trải nghiệm của họ. Điều này được tìm thấy các trong các nghiên cứu của Mokhlis (2008) và Chigamba (2011). Hoạt động Marketing tại các ngân hàng cũng tương đối giống với các hoạt động Marketing tại các doanh nghiệp thông thường khác nên được coi là một phần không thể thiếu và có ảnh hưởng mạnh mẽ đến lợi nhuận, hoạt động Marketing càng nhiều thì khả năng lan toả đến khách hàng càng nhiều và là yếu tố quan trọng khi khách hàng lựa chọn ngân hàng để giao dịch (O’Cass, 2003). Từ đó, giả thuyết nghiên cứu được đề xuất như sau:
 
H6: Hoạt động Marketing có ảnh hưởng tích cực đến sự lựa chọn ngân hàng để thực hiện giao dịch
 
Từ các giả thuyết nói trên, tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu như sau:
 
Hình 1: Mô hình nghiên cứu đề xuất
Đo lường quá trình chọn lựa ngân hàng để thực hiện giao dịch của nhóm khách hàng cá nhân tại Thành phố Hà Nội
(Nguồn: Tác giả đề xuất)
 
Tổng hợp từ mô hình và giả thuyết nghiên cứu đề xuất được viết dưới dạng phương trình hồi quy như sau:
 
LC = β0 + β1*CS + β2*TĐ + β3*UT + β4*TC + β5*CL + β6*HĐ + e
 
Trong đó:
 
LC (yếu tố phụ thuộc): Lựa chọn ngân hàng để thực hiện giao dịch
 
Các yếu tố độc lập bao gồm (Xi): Cơ sở vật chất (CS); Thái độ nhân viên (TĐ); Uy tín thương hiệu (UT); Lợi ích tài chính (TC); Chất lượng dịch vụ (CL); Hoạt động Marketing (HĐ)
 
βk: Hệ số hồi quy (k = 0, 1, 2,...6).
 
e: là phần dư
 
3. Phương pháp nghiên cứu
 
Nghiên cứu xây dựng phiếu phỏng vấn dựa trên thang đo chính thức được kế thừa từ các nghiên cứu trong và ngoài nước trong phần cơ sở lý thuyết kết hợp với quá trình thảo luận nhóm với chuyên gia, khách hàng cá nhân để hiệu chỉnh thang đo. Nghiên cứu sử dụng thang đo Likert 5 mức độ (Mức 1 - Rất không đồng ý đến Mức 5 - Rất đồng ý), phiếu khảo sát được phát trực tiếp và trực tuyến bằng phương pháp phi xác suất thuận tiện đến nhóm khách hàng cá nhân đã từng, đang sử dụng các dịch vụ giao dịch tại các ngân hàng thương mại trên địa bàn TP. Hà Nội. Dữ liệu thu thập được phân tích bằng phần mềm SPSS 26 với cỡ mẫu được tính theo tỷ lệ tối thiếu khi phân tích nhân tố khám phá theo Hair và cộng sự (2010). Thời gian khảo sát từ tháng 10/2024 đến tháng 12/2024 với số phiếu thu về 156 phiếu hợp lệ.
 
4. Kết quả phân tích
 
Bảng 1: Kết quả phân tích hệ số Cronbach’s Alpha, hệ số nhân tố khám phá
và hệ số tương quan Pearson
Đo lường quá trình chọn lựa ngân hàng để thực hiện giao dịch của nhóm khách hàng cá nhân tại Thành phố Hà Nội
(Nguồn: Phân tích của tác giả)
 
Kết quả phân tích bảng 1 cho thấy, các yếu tố độc lập đều có hệ số Cronbach’s Alpha > 0,7 và hệ số tương quan biến tổng > 0,4 nên thang đo đạt được độ tin cây và giá trị phân biệt. Đồng thời, khi phân tích EFA cho thấy các biến quan sát trong thang đo đều đạt chất lượng bởi hệ số tải nhân tố đều > 0,7 và không có biến quan sát nào bị loại khỏi thang đo. Hệ số KMO > 0,5 và hệ số Eigenvalue > 1,2 tại nhân tố tải thứ 6 với các biến quan sát được phân bổ vào từng yếu tố đúng với mong muốn đặt ra và tổng phương sai trích lớn hơn 70%, nghĩa là 6 yếu tố độc lập giả thích được 73,320% sự biến thiên của dữ liệu nghiên cứu. Ngoài ra, khi thực hiện phân tích tương quan Pearson cho thấy, hệ số tương quan giữa các yếu tố độc lập với yếu tố phụ thuộc đều > 0,7 với hệ số Sig < 0,05 đã chỉ ra mô hình chưa xuất hiện hiện tượng đa cộng tuyến (Hair và cộng sự, 2010). Đối với yếu tố phụ thuộc khi thực hiện các phân tích đều đáp ứng với khuyến nghị của Hair và cộng sự (2010) nêu ra.
 
Bảng 2. Kết quả phân tích hồi quy tuyến tính đa biến
Đo lường quá trình chọn lựa ngân hàng để thực hiện giao dịch của nhóm khách hàng cá nhân tại Thành phố Hà Nội 1
(Nguồn: Phân tích của tác giả)
 
Kiểm tra mức độ phù hợp mô hình cho thấy hệ số R2 hiểu chỉnh đạt 0,801 thể hiện mức độ phù hợp của mô hình cao, các yếu tố độc lập ảnh hưởng đến yếu tố phụ thuộc đạt 80,1%, còn lại là 19,9% là sai số hoặc các yếu tố khác nằm ngoài mô hình. Hệ số Durbin - Watson bằng 1,851 đạt yêu cầu không vi phạm giả định tự tương quan chuỗi bậc nhất. Hệ số Sig. của kiểm định F nhỏ hơn 0,000 đã chỉ ra mô hình hồi quy tổng thể phù hợp với mọi cấu trúc được kiểm tra. Hệ số phóng đại phương sai VIF của các yếu tố trong mô hình đều nhỏ hơn 2 và giá trị Sig. của kiểm định t đều nhỏ hơn 0,05 do đó không xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến. Bên cạnh đó, kiểm tra giả định về phân phối chuẩn của phần dư cho thấy độ lệch chuẩn Std. Dev = 0,991 và Mean = 3,16E-15 nên giả thuyết phân phối chuẩn của phần dư khi xây dựng mô hình hồi quy không bị vi phạm. Biểu đồ phân tán thể hiện sự phân tán ngẫu nhiên của các giá trị phần dư trong một vùng đi qua đường tung độ 0 và các điểm quan sát không phân tán quá xa đường thẳng kỳ vọng do đó giả định liên hệ tuyến tính không vi phạm. Kết quả các giả thuyết đưa ra đều được chấp nhận, phương trình hồi quy theo hệ số beta chuẩn hoá như sau:
 
LC = 0,325*UT + 0,306*HĐ + 0,289*TC + 0,262*TĐ + 0,243*CL + 0,201*CS + e

Qua phương trình 6 yếu tố đều có ảnh hưởng chiều dương tới biến phụ thuộc theo mức độ giảm dần là: Uy tín thương hiệu; Hoạt động Marketing; Lợi ích tài chính; Thái độ nhân viên; Chất lượng dịch vụ; Cơ sở vật chất. Bên cạnh đó kết quả kiểm định trung bình t- test và phân tích phương sai ANOVA không cho thấy có sự khác biệt giữa các yếu tố nhân khẩu học với sự lựa chọn ngân hàng để thực hiện giao dịch của các khách hàng cá nhân tại Thành phố Hà Nội.

5. Kết luận và hàm ý chính sách

Nghiên cứu đã xác định và đo lường các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn ngân hàng để thực hiện giao dịch của khách hàng cá nhân tại Thành phố Hà Nội. Thông qua các phương pháp phân tích định lượng trên phần mềm SPSS26, kết quả hồi quy cho thấy 6 yếu tố có tác động tích cực đến quyết định lựa chọn ngân hàng để thực hiện giao dịch của nhóm khách hàng cá nhân bao gồm: Uy tín thương hiệu, Hoạt động Marketing, Lợi ích tài chính, Thái độ nhân viên, Chất lượng dịch vụ, và Cơ sở vật chất.

Kết quả nghiên cứu mang lại thông tin hữu ích về các yếu tố tác động đến hành vi lựa chọn ngân hàng của khách hàng cá nhân, đồng thời cung cấp cơ sở thực tiễn giúp các ngân hàng thương mại đưa ra các chiến lược kinh doanh hiệu quả. Trên cơ sở đó, các ngân hàng cần tập trung xây dựng hình ảnh thương hiệu vững chắc, đẩy mạnh các hoạt động marketing, điều chỉnh chính sách giá và phí dịch vụ, nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên cũng như đầu tư vào nghiên cứu hành vi khách hàng để tối ưu hóa trải nghiệm người dùng. Bên cạnh những đóng góp có được, nghiên cứu vẫn còn tồn tại một số hạn chế như kích cỡ mẫu còn nhỏ so với dân số Thành phố Hà Nội hiện tại, phương pháp lấy mẫu thuận tiện đơn giản và vẫn còn các yếu tố khác ngoài mô hình cần xem xét thêm. Đây cũng là những hướng nghiên cứu mà tác giả sẽ mở rộng trong tương lai.

 

(ThS. Uông Thị Ngọc Lan Trường Đại học Thành Đông)

Tin tức liên quan

  • Video Clip
    • Sử Dụng Tiền Lương Tiền Thưởng Có Hiệu Quả - PGS.TS TRẦN KIM DUNG - phần 3
    • Để Tối Ưu Hóa Vai Trò của Nhân Sự
    • DOMI giới thiệu về sự phát triển của các tổ chức khoa học - công nghệ ngoài công lập ( Đơn vị 81)
  • Thăm dò ý kiến
    • Bạn biết đến DOMI qua hình thức nào dưới đây:
    • Các trang tìm kiếm trên internet
    • Được người khác giới thiệu
    • Hoạt động đào tạo, tư vấn, hội thảo
    • Thông tin trên Brochure, namme card
    • Từ nguồn thông tin khác
    • Xem kết quả
KẾT QUẢ THĂM DÒ Ý KIẾN
Các trang tìm kiếm trên internet: 38956
Được người khác giới thiệu: 18948
Hoạt động đào tạo, tư vấn, hội thảo: 9878
Thông tin trên Brochure, namme card: 4357
Từ nguồn thông tin khác: 8053
  • Liên kết đối tác
    • Cac chuong trinh dao tao