Khoa học VN kẹt trong phi chuẩn mực, tư duy ăn xổi
(Cập nhật: 4/3/2013 3:26:55 PM)
Việt Nam là nước đi sau về khoa học và công nghệ (KH-CN). Ta du nhập cách làm KH-CN, ban đầu từ các nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô và Đông Âu (ở miền Bắc), gần đây từ các nước tư bản Âu-Mỹ. Ý thức hệ và thiết chế của hai hệ thống hoàn toàn khác nhau, song tư duy và cách nghiên cứu khoa học lại khá giống nhau. Học họ, nhưng ta chẳng giống ai, có chăng chỉ là những bề nổi bên ngoài, như các danh hiệu giáo sư, tiến sỹ, còn cốt lõi bên trong thì theo cách tư duy của mình- GS Phạm Duy Hiển.
Từ chối chuẩn mực phổ quát trong nghiên cứu khoa học
Ở nước ngoài, chức danh tiến sỹ khẳng định anh đã vượt qua những đòi hỏi
gắt gao về học thuật để có thể bắt đầu theo đuổi sự nghiệp nghiên cứu
khoa học, hoặc giảng dạy đại học. Ở ta, thiếu tấm bằng tiến sỹ chẳng
những không vênh vang được với thiên hạ mà không thể chen chân vào nhiều
chức quan. Có nơi còn quy định 50% cán bộ thuộc thành ủy quản lý phải
có bằng tiến sỹ (TuanVietnam.net, 29/10/2012).
Theo kế hoạch của Bộ GD-ĐT, đến năm 2020 Việt Nam phải có sáu vạn tiến sỹ để đáp ứng quy mô mở rộng hệ thống đại học với 450 sinh viên trên một vạn dân, không cần biết hiện có bao nhiêu người hướng dẫn và phòng thí nghiệm đáp ứng yêu cầu.
Cách quy hoạch ngược đời này đang lạm phát ồ ạt bằng
tiến sỹ, thực học không cần, chuẩn mực khoa học bị gạt bỏ, chưa kể bằng
dởm, viết luận án thuê, đang tràn lan (ANTĐ, 28/10/2012).
Ở nước ngoài, giáo sư phải là người sáng tạo ra tri thức mới qua hàng
loạt công trình được đồng nghiệp khắp nơi trên thế giới trích dẫn và sử
dụng. Ở ta, trong Quy chế bổ nhiệm giáo sư mới sửa đổi gần đây để tiến
gần hơn đến thông lệ quốc tế vẫn chưa có điểm sàn tối thiểu, chẳng hạn
yêu cầu giáo sư phải có một vài bài báo quốc tế.
Giáo sư ở ta được tính điểm khoa học chủ yếu dựa trên
900 ấn phẩm nội địa, nhưng chưa có tạp chí nào trong số này, kể cả
những tạp chí tiếng Anh, lọt vào Web of Knowledge của Thomson Reuter
(ISI). Đây là cơ sở dữ liệu chứa những thông tin cơ bản về các công
trình khoa học có phản biện quốc tế đăng trên một vạn tạp chí hàng đầu,
bao quát mọi ngành khoa học, kỹ thuật, xã hội, nhân văn và nghệ thuật.
Tuy không đâu quy định chính thức, song ISI được giới khoa học khắp nơi
xem như chuẩn mực, một bộ lọc bảo đảm chất lượng đội ngũ nghiên cứu khoa
học, qua đây khẳng định chỗ đứng của nhà khoa học trên mặt tiền thế
giới.
Các tổ chức quốc tế cũng dựa vào số bài báo có phản
biện quốc tế và số bằng sáng chế để xếp hạng đại học, trình độ khoa học
và năng lực cạnh tranh của các quốc gia. Cách làm này chưa thể xem là
tuyệt hảo, song tương tự như GDP, tuy còn khiếm khuyết vẫn được dùng làm
thước đo sức mạnh của nền kinh tế. Cho nên né tránh các diễn đàn khoa
học quốc tế chẳng khác nào vận động viên cấp quốc gia chê đấu trường
Olympic.
Mãi gần đây, công bố quốc tế mới được dùng làm căn cứ để đánh giá các đề
tài khoa học cơ bản. Nhưng công bố quốc tế lại không đòi hỏi đối với
các nghiên cứu ứng dụng, kỹ thuật, xã hội, nhân văn chiếm hầu hết ngân
sách và nguồn nhân lực khoa học của đất nước, lại có tác động trực tiếp
đến quốc kế dân sinh.
Các ngành xã hội nhân văn chiếm ba phần tư số ấn phẩm khoa học nội địa hầu như không có mặt trên các tạp chí quốc tế. Các kết quả nghiên cứu này đúng sai đến đâu, rất khó biết. Trong nhiều thập kỷ gần đây diện mạo khoa học xã hội nhân văn trên thế giới đã thay đổi hoàn toàn nhờ có sự xâm nhập của toán học và các khoa học tự nhiên.
Nhiều hướng nghiên cứu đa ngành xuất hiện, khoa học
tự nhiên và xã hội đan xen nhau, không thấy đâu phân chia riêng rẽ như ở
ta. Khoa học xã hội nhân văn của ta đang lạc lõng khỏi thế giới.
Vì sao cho đến nay các diễn đàn khoa học quốc tế không được chấp nhận?
Trong số các giáo sư được bổ nhiệm mấy năm gần đây chỉ những người làm
Toán và Vật lý có 4-5 bài báo quốc tế trở lên, đa số những giáo sư
nghiên cứu ứng dụng, kỹ thuật và xã hội, nhân văn chỉ công bố công trình
trong nước.
Nhiều người trong số này lập luận rằng nghiên cứu ứng
dụng cốt mang lại lợi ích kinh tế thiết thực, cần gì những mục tiêu hàn
lâm. Lập luận này phù hợp với quan điểm nhiều người trong giới quản lý
và các cơ quan cấp kinh phí, nên có tác động đến chính sách.
Trên thực tế rất khó đánh giá một công trình nghiên cứu mang lại “lợi
ích kinh tế thiết thực” bằng cách nào (xem phần sau). Vả lai, trong số
hàng triệu công trình nghiên cứu hàng năm trên thế giới chỉ một số rất
ít có tiềm năng trực tiếp tạo ra những ứng dụng nào đó.
Trong khi đó, nghiên cứu khoa học có sứ mạng tìm ra
tri thức mới, mà cái mới lại rất dễ khẳng định qua bài báo có phản biện
quốc tế. Những khám phá trong khoa học cơ bản là tri thức mới đã đành,
những quy luật tự nhiên, xã hội ở Việt Nam mà thế giới chưa biết, những
phiên bản ứng dụng có thêm phát hiện mới trong điều kiện cụ thể ở nước
ta … vẫn cứ rất mới với thế giới, miễn là nhà khoa học phải am tường mọi
kết quả nghiên cứu và phương pháp luận hiện đại nhất, từ đó tìm được
chỗ đứng dành cho kết quả nghiên cứu của mình trên mặt tiền khoa học.
Cũng phải thừa nhận rất khó tìm được chỗ đứng trên mặt tiền khoa học nếu
không có thiết bị nghiên cứu, phòng thí nghiệm và hạ tầng kỹ thuật hiện
đại. Chính khó khăn này giải thích tại sao công bố quốc tế của Việt Nam
nghiêng hẳn về Toán và các môn lý thuyết.
Số bài báo quốc tế về khoa học thực nghiệm, ứng dụng
và kỹ thuật quá ít, không tương xứng với quy mô nhân lực và đầu tư, và
ít hơn hẳn các nước xung quanh như Thái Lan, Malaysia.
Bước đột phá trong chiến lược KH-CN 2011-2020
Gần đây lãnh đạo Bộ KHCN đã tạo ra bước đột phá rất đáng mừng, chính
thức khẳng định công bố quốc tế là thước đo năng lực nghiên cứu khoa học
của đất nước. Chiến lược KH-CN 2011-2020 (sau đây gọi tắt là Chiến
lược) nêu rõ mục tiêu (thứ hai) tăng số lượng công bố quốc tế từ các đề tài sử dụng ngân sách nhà nước trung bình 15-20%/năm. Mục tiêu thứ năm lại ghi rõ đến năm 2020 hình thành 60 tổ chức nghiên cứu cơ bản và ứng dụng đạt trình độ khu vực và thế giớí.
Tăng số lượng công bố quốc tế 15-20%/năm là mục tiêu hoàn toàn khả thi,
Ngay trong mười năm 2000-2009 chúng ta đã đạt tốc độ 15-16%/năm, ngang
với Thái Lan và Malaysia, chỉ kém Trung Quốc (20%/năm), nhưng nhanh hơn
Philippines và Indonesia (5,7%/năm).
Song số lượng công bố quốc tế chưa phản ảnh đầy đủ năng lực nghiên cứu và hiệu quả đầu tư cho khoa học của một quốc gia. Phân tích các công bố quốc tế của Việt Nam và 11 nước Đông Á cho thấy chất lượng các bài báo (dựa trên chỉ số trích dẫn trung bình) của Việt Nam còn thấp, nhiều ngành trực tiếp liên quan đến quốc kế dân sinh chưa có công bố quốc tế, và phần lớn đồng tác giả Việt Nam không đóng vai trò chính trong các công trình.
Số công trình do nội lực chỉ chiếm 30%, vào loại thấp
nhất khu vực, so với 90% ở Nhật, Hàn Quốc và Đài Loan (xem bài “A
comparative study of research capability of East Asian countries and
implication for Vietnam” đăng trên Higher Education, Vol. 60, trang
615-625, bản dịch tiếng Việt trên Tia Sáng, 22/06/2010).
Bước đột phá trong “Chiến lược” sẽ đưa chúng ta thoát khỏi tình trạng
lạc lõng bấy lâu nay để sớm sánh vai với các nước, nhanh chóng tiếp cận
mặt tiền khoa học. Song muốn đạt được các mục tiêu trong “Chiến lược”
cần có những đột phá mới để khoa học Việt Nam khỏi bị mắc kẹt trong
những tư duy, cơ chế và cơ cấu tổ chức bất cập hiện nay.
Hành chính hóa hoạt động nghiên cứu khoa học
Chỉ bám vào nguồn kinh phí duy nhất từ ngân sách nhà nước, lại thiếu
chuẩn mực nghiêm túc, hoạt động nghiên cứu khoa học rơi vào tình trạng
hành chính hóa, do các quan chức hành chính cầm cân nẩy mực.
Họ là những người chưa hề nghiên cứu khoa học, hoặc
nếu xuất thân từ giới khoa học, họ sẽ ném ngay “hòn gạch gõ cửa” sau khi
lọt vào chốn quan trường (Lỗ Tấn, Khổng Phu tử ở Trung Quốc đời nay,
bản dịch Phan Khôi). Đối với nhiều người trong số họ, khoa học giờ đây
chỉ còn là chiếc áo khoác bên ngoài, bên trong là danh, quyền và tiền,
những cạm bẫy rất ít ai thoát khỏi.
Hành chính hóa nghiên cứu khoa học đặt ra luật chơi hành chính. Đề tài
các cấp vận hành theo kiểu hợp đồng kinh tế như ra đầu bài, đấu thầu,
tuyển chon, kiểm tra tiến độ v.v…Kinh phí được quyết toán dựa trên số
ngày công khai báo cho từng thành viên tham gia, số trang dịch thuật,
tiền thuê mướn nhân công, vật tư, hóa chất tiêu hao v.v…
Sản phẩm phải mục sở thị như quy trình, quy phạm,
tiêu chuẩn nhà nước, phần mềm, số cơ sở sử dụng các kết quả v.v.... Để
được nghiệm thu lại phải có đầy đủ các chứng từ, hóa đơn thanh toán hợp
“lệ”. Chỉ có bài báo quốc tế là không đòi hỏi.
Bởi bài báo quốc tế yêu cầu cao hơn hẳn. Đó là phát hiện mới (new
findings), tính độc đáo (originality), góp phần đẩy hướng nghiên cứu lên
phía trước (significant advances in field) và phương pháp luận hiện đại
(state-of- the art approach).
Không cần hội đồng đông người, chỉ một trong hai phản
biện lắc đầu, bài báo sẽ bị từ chối. Rõ ràng từ đề tài được Bộ KH-CN
nghiệm thu đến bài báo quốc tế được chấp nhận là một khoảng cách rất xa,
đầy thách thức, nhiều người đành bỏ cuộc vì không còn kinh phí và thời
gian, họ phải lao tiếp vào đề tài mới để tồn tại.
Song những đề tài, luận án nói trên lại được dùng làm căn cứ bổ nhiệm giáo sư, phó giáo sư. Theo Quy chế, giáo sư phải
hướng dẫn chính ít nhất hai nghiên cứu sinh đã bảo vệ thành công luận
án tiến sĩ, chủ trì ít nhất một đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ hoặc
đề tài cấp cao hơn đã nghiệm thu với kết quả từ đạt yêu cầu trở lên.
Các tân giáo sư sẽ được phân vai mới trong hệ thống
hành chính, chủ trì các đề tài, dự án, chương trình nhà nước, có tiếng
nói nặng cân hơn trong các hội đồng xét duyệt và nghiệm thu. Cuộc chơi
trên sân nhà có thêm vai diễn mới, không thấy hồi kết.
Hành chính hóa nghiên cứu khoa học bộc lộ nhiều lỗ hổng làm nơi ẩn chứa
cơ chế xin cho, ban phát, vốn là sản phẩm của thời bao cấp. Thời nay,
mỗi đề tài, dự án cấp Bộ trở lên thường được cấp từ hàng trăm triệu đến
hàng chục tỷ đồng, nên không còn ai ban phát vô tư nữa, kẻ cho người
nhận đều phải biết hành xử theo “luật thị trường”.
Có hội đồng khoa học để xét duyệt và nghiệm thu,
nhưng hội đồng lại do chính bộ máy hành chính lập ra để dễ dàng hợp thức
hóa các ý định của mình. Hội đồng chỉ bàn về học thuật không tham gia
xét duyệt kinh phí cho đề tài, việc này thường được dàn xếp giữa người
ban phát và người nhận. Tiếng nói chính trực thường là thiểu số và sẽ
không có cơ hội trong các lần sau.
Dễ hiểu tại sao nạn gian dối – điều tối kỵ nhất trong khoa học - lại lên
ngôi trong những năm gần đây. Khai gian, khai khống các khoản chi là
chuyện thường tình. Mọi người đều gian dối nên không ai phải xấu hổ. Bịa
số liệu, đạo văn, thuê viết luận án …ngày càng phổ biến.
Nhóm lợi ích hình thành qua các đề tài dự án, che
chắn nhau rút ruột kinh phí nhà nước. Phi chuẩn mực và hành chính hóa
làm cho môi trường học thuật ở nước ta ngày một tù mù, vàng thau lẫn
lộn, nghiên cứu khoa học trở nên tùy tiện, đề tài nào, công trình nào
cũng xem là nghiên cứu, hội thảo nào cũng có thể gán thêm mác khoa học.
Báo chí và xã hội không phân biệt được thực và giả, nhà khoa học đích
thực với những người khoác áo khoa học.
Từ môi trường học thuật này không thể xuất hiện đỉnh cao mà chỉ có số
đông làng nhàng, thiếu chuyên nghiệp. Lao vào quan trường là con đường
tiến thân độc đạo, số người theo đuổi học thuật đến cùng hiếm dần, thành
phần ưu tú ngày càng vắng bóng trong lãnh đạo các viện nghiên cứu,
trường đại học và ngay ở những cơ quan đầu não về KH-CN. Rất đông tài
năng trẻ được đào tạo bài bản ở nước ngoài không tìm thấy đất dụng võ
khi trở về nước. Thực trạng này liệu các nhà lãnh đạo có biết?
Không thành công trong nội địa hóa công nghệ
Nhà nước có chủ trương nội địa hóa công nghệ, nhưng thiếu quyết sách.
Hàng điện tử và công nghệ cao là mũi nhọn xuất khẩu, dự kiến đến 2020
kim ngạch lên đến 45% để minh chứng cho mục tiêu công nghiệp hóa theo
hướng hiện đại của đất nước. Riêng chín tháng đầu năm 2012 kim ngạch
xuất khẩu lên đến 15 tỷ USD, chiếm 18% tổng kim ngạch.
Song phần lớn là sản phẩm từ các doanh nghiệp nước ngoài, và đằng sau những con số ấn tượng trên là một sự thật ê chề: “trong
mặt hàng này các doanh nghiệp Việt Nam nhập 100% linh kiện nước ngoài…,
phần nội địa hóa chỉ là vỏ nhựa, thùng các tôn và xốp” (SGGP, 25/9/2012).
Về cơ khí, nội địa hóa công nghiệp ô tô trong hơn hai thập kỷ qua chỉ
đạt vài phần trăm (Vneconomy, 03/07/2012), xem như thất bại. Công bằng
mà nói, thành tích nội địa hóa công nghệ ấn tượng nhất chính là mấy con
tàu trọng tải 50 nghìn tấn được VINASHIN cho hạ thủy và xuất khẩu. Nhưng
VINASHIN vỡ nợ, gây hậu quả nghiêm trọng cho đất nước. Các học giả có
dịp ném đá vào đống đổ nát mà ít ai quan tâm nhặt ra từ đó bài học nội
địa hóa công nghệ thành công hay thất bại.
Có nhiều lợi thế hơn VINASHIN, nhưng TKV và EVN cũng không chịu nội địa
hóa công nghệ. Theo Quyết định 167/2007/QĐ- TTg, hàng chục nhà máy chế
biến alumina sẽ được xây dựng từ năm 2007 dến 2025 trên Tây Nguyên,
nhưng không có từ ngữ nào nhắc đến lộ trình nội địa hóa công nghệ, trong
khi Việt Nam sở hữu một tiềm năng bô xít lớn thứ năm thế giới.
Chính phủ cũng không yêu cầu TKV hứa hẹn đến bao giờ
sẽ có công nghệ Việt Nam. Mẻ alumina đầu tiên đang chậm tiến độ hơn hai
năm, và trên thực tế cả đại dự án bô xit đang gặp bế tắc, chính phủ phải
rút quy mô chỉ còn hai nhà máy thí điểm. Một kết quả nhãn tiền, bởi
không chỉ công nghệ, mà cả khoa học cũng đứng ngoài. Bao nhiêu bài toán
kinh tế, kỹ thuật, môi trường, xã hội … chưa được nghiên cứu thấu đáo
trước khi ra Quyết định.
Hàng chục nhà máy điện chạy than được EVN xây dựng trên khắp cả nước đều
rơi vào tay nhà thầu nước ngoài. Không biết đến bao giờ mới thấy tua
bin và máy phát điện do người Việt tự chế tạo. Trong khi đó, EVN đi tắt
đến thẳng điện hạt nhân, đề xuất đưa vào vận hành hàng chục lò phản ứng
từ 2020 đến 2030.
Nhiều ý kiến phản bác hoặc đề nghị đình hoãn kế hoạch
mạo hiểm này sau khi xảy ra thảm họa Fukushima. Nhưng chúng đều lọt
thỏm trong luồng dư luận phải làm điện hạt nhân mới có quốc phòng mạnh,
mới có nước Việt Nam hiện đại vào năm 2020.
Thành ra hiện đại hay không là ở người tiêu dùng. Nói nôm na, với chiếc
iphone 5S bên tay lái Mercedes ngày một phổ biến trên các xa lộ nước ta,
người Việt cũng hiện đại không kém người Mỹ, người Đức. Đó là nhờ ta
biết đi tắt đón đầu, đúng như lời một vị Bộ trưởng dõng dạc thuyết phục
Quốc Hội trước đây ba năm: “xây dựng đường sắt cao tốc Bắc –Nam chính là
phương án đi tắt đón đầu lên thẳng hiện đại”.
Không có bằng sáng chế
Không có sản phẩm từ công nghệ Việt Nam, bằng sáng chế cũng không có
nốt. Việt Nam hầu như không có bằng sáng chế đăng ký ở Mỹ (US Patent and
Trademark Office, US PTO). Trong khi đó, năm 2011 Indonesia và
Philippines sở hữu hàng chục bằng, Thái Lan, Malaysia, Singapore, Hàn
Quốc còn nhiều hơn gấp bội.
Báo chí đổ lỗi cho 9000 giáo sư/ phó giáo sư
(VietNamNet, 5/11/2012) khiến mọi người có dịp mang các vị ra đàm tiếu
mà không biết rằng nghiên cứu khoa học khác nghiên cứu công nghệ. Sản
phẩm nghiên cứu khoa học là tài sản chung cho mọi người cùng sử dụng,
bằng sáng chế là bí quyết công nghệ của doanh nghiệp được bảo vệ và mua
bán thông qua cơ quan đăng ký. Chính doanh nghiệp, chứ không phải tác
giả, phải bỏ tiền ra để đăng ký bằng sáng chế và hưởng lợi từ việc mua
bán nầy.
Đâu phải làm thơ, nhà khoa học lấy đâu ra bằng sáng chế khi doanh nghiệp
không yêu cầu. Thiếu bằng sáng chế chứng tỏ trình độ quá thấp của nền
công nghiệp nước nhà. Chúng ta chỉ du nhập công nghệ từ nước ngoài để
sản xuất, mà không nội địa hóa để có công nghệ của mình. Nếu cần thay
thế công nghệ, doanh nghiệp sẽ đi mua, hơn là đầu tư nghiên cứu.
Tư duy ăn xổi
Dù sao, thiếu bằng sáng chế cũng đặt ra dấu hỏi về tính thiết thực và
hiệu quả của nghiên cứu khoa học. Ở Việt Nam hai thuật ngữ khoa học và
công nghệ luôn gắn với nhau, thậm chí đồng nhất với nhau trong cùng một
khái niệm như thị trường khoa học công nghệ, hội chợ khoa học công nghệ
v.v…
Chính sự nhập nhằng này trong tư duy làm cho nghiên
cứu công nghệ đích thực vẫn là bãi đất trống. Đây là hệ quả của tư duy
ăn xổi, muốn nghiên cứu khoa học phải cho ra ngay sản phẩm trên thị
trường.
Khoa học và công nghệ hỗ trợ lẫn nhau, nghiên cứu khoa học tạo ra mảnh
đất cho công nghệ phát triển, và ngước lại. Tuy nhiên ngay trong số hàng
triệu bài báo khoa học công bố hàng năm trên thế giới, rất ít công
trình có tiềm năng tạo ra công nghệ hay dịch vụ.
Nếu có, còn phải trải qua nhiều khâu, đòi hỏi thời gian, công sức và kinh phí. Kết quả nghiên cứu phải được kiểm nghiệm và củng cố bằng nhiều nghiên cứu mới tiếp theo, bảo đảm chất lượng (QA), prototype, quy mô pilot, thử sai (trial by error) nhiều lần trước khi đưa ra ứng dụng.
Tư duy ăn xổi bỏ qua các khâu quan trọng này, nên nghiên cứu khoa học sinh ra những đứa trẻ đẻ non, chết yểu, làm thất thoát nguồn kinh phí lớn của nhà nước.
Bao nhiêu đề tài chế tạo thiết bị với tính năng
“chẳng kém nước ngoài”, nhưng chỉ là đơn chiếc mang trưng bày ở triển
lãm, hội chợ, sau vài năm mất hút. Số trẻ đẻ non, chết yểu này nhiều
lắm, cứ chọn ra một số đề tài, dự án lớn được Bộ KHCN nghiệm thu từ 5
đến 10 năm trước đây sẽ thấy ngay.
Tư duy ăn xổi không thể tạo ra những đỉnh cao khoa học, những hướng
nghiên cứu mũi nhọn có thể sớm bứt phá lên mặt tiền khoa học thế giới.
Các quan chức muốn thấy thành tích ngay trong nhiệm kỳ của mình, lại
phải ban phát, rải đều quả thực cho mọi người, năm nay anh có đề tài,
sang năm đến lượt anh khác, người làm khoa học giống như dân du canh,
không chuyên sâu vào một hướng nhất định.
Trong khi đó, khoa học phát triển được nhờ tích lũy
và kế thừa, công trình đẻ ra công trình, thành công lẫn thất bại trong
công trình trước đều để lại dấu ấn trong các công trình sau. Biết tích
lũy và kế thừa, tri thức sẽ tăng tốc theo cấp số nhân, được lưu lại
trong đầu con người qua các thế hệ, trở thành một dạng chứng khoán
(stock) của các doanh nghiệp, thành truyền thống của phòng thí nghiệm và
hình hài của nền khoa học.
Qua cơ chế tích lũy và kế thừa, người tài mới xuất hiện, người khác đứng
trên vai họ (stand on the shoulder of giants) để nhìn rõ chân trời phía
trước. Nhờ đó các nhóm nghiên cứu mạnh được hình thành và phát triển,
các thế hệ khoa học sinh ra và trưởng thành nối tiếp nhau.
Theo “Chiến lược”, năm 2020 nước ta sẽ có 60 nhóm
nghiên cứu mạnh. Hy vọng họ, và những người lãnh đạo của họ, sẽ làm nên
hình hài nền khoa học nước nhà. Thế giới sẽ biết khoa học Việt Nam qua
họ. Các thế hệ tương lai sẽ nhớ đến thế hệ hiện nay qua các công trình
khoa học của họ.
Mấy bước đột phá thay lời kết
Chỉ cần cố gắng làm giống như các nước khác, KH-CN Việt Nam sẽ thoát ra
khỏi tình trạng hiện nay. Nghiên cứu khoa học chỉ được xem là đích thực
khi tìm ra tri thức mới. Những người cầm quân, như giáo sư, chỉ được bổ
nhiệm khi có chỗ đứng nhất định trên mặt tiền khoa học.
Công bố quốc tế phải được dùng làm thước đo thay cho
các chuẩn mực hành chính. Làm được những việc này sẽ tạo ra bước đột phá
lớn đẩy lùi tệ nạn xin cho, ban phát và những tiêu cực trong môi trường
học thuật hiện nay.
Sản phẩm nghiên cứu khoa học là đỉnh cao văn hóa, làm tăng vốn tri thức
của đất nước, tác động đến chính sách và nâng cao mặt bằng dân trí, từ
đó tạo nên sức mạnh tác động đến phát triển kinh tế xã hội. Trường đại
học là nơi gánh vác tốt nhất sứ mạng này.
Từ trường đại học tri thức khoa học lan tỏa ra cộng đồng, do đó phải tạo điều kiện tốt nhất để sinh viên – những người lan tỏa tri thức – được tiếp thu tri thức mới trực tiếp từ những nhà khoa học có chỗ đứng trên mặt tiền khoa học.
Nghĩa là phải ưu tiên tập trung nghiên cứu khoa học
về các trường đại học và xây dựng lên tại đây những nhóm nghiên cứu
mạnh. Chúng ta đã bỏ lỡ bao nhiêu cơ hội rồi, giờ đây không được chậm
trễ nữa.
Nghiên cứu công nghệ khác với nghiên cứu khoa học và cần có chỗ đứng
trong phát triển kinh tế. Nên cho qua đi niềm tự hào Việt Nam là nơi thu
hút vốn FDI, ODA nhiều nhất, thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất….
Không thể mãi mãi làm người tiêu thụ mà phải bước lên bục cao hơn của những người tạo ra tiện ích cho xã hội. Con đường duy nhất là nội địa hóa công nghệ, sau đó tiến lên đổi mới để cạnh tranh.
Cho nên rất cần một quyết sách từ phía nhà nước, đừng để doanh nghiệp mãi chạy theo lợi nhuận trước mắt mà quên lợi ích lâu dài của dân tộc. Và sau quyết sách là tầm nhìn và trách nhiệm của những nhà lãnh đạo KH-CN. Bởi tìm ra cách đi hợp lý trước trăm bề ngổn ngang hiện nay, thật không dễ chút nào.
(Phạm Duy Hiển - ĐVO)
Tin tức liên quan
- Kinh tế tri thức ở Việt Nam?
- Phép dùng người của Chủ tịch Hồ Chí Minh
- Vốn xã hội cho phát triển KH&CN Việt Nam
- Chiêu hiền đãi sĩ
- Peter Drucker – Người tôn vinh nghề quản trị
- VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐÁNH GIÁ CÁN BỘ TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách lãnh đạo quản lý
- Các học thuyết lãnh đạo, quản trị doanh nghiệp (P1)
- Các học thuyết lãnh đạo, quản trị doanh nghiệp (P2)
- Vật vờ nghiên cứu khoa học - Kỳ 5: Thay đổi tư duy tận gốc
- Tiêu điểm
- Tin đọc nhiều
- Thăm dò ý kiến
- Bạn biết đến DOMI qua hình thức nào dưới đây:
- Các trang tìm kiếm trên internet
- Được người khác giới thiệu
- Hoạt động đào tạo, tư vấn, hội thảo
- Thông tin trên Brochure, namme card
- Từ nguồn thông tin khác
- Xem kết quả